Tên di sản : Đền thờ Lê Ngọc

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 3475/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đền thờ Lê Ngọc được dựng ngay trên đất sinh phần của Lê Ngọc ở làng Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn ngày nay. Trải qua thời gian, toàn bộ di tích này đã bị phá hủy hoàn toàn, nhưng theo chỉ dẫn của các cụ già ở làng đã cho chúng ta biết được vị trí của đền thờ Lê Ngọc trước đây.

Qua khảo sát thực tế, chúng ta biết được Trường Xuân chính là nơi chôn cất và thờ tự Lẽ Cốc sau khi ông mất. Đền thờ của ông được làm theo kiểu Thượng sàng hạ mộ. Trong suốt thời gian dài hơn 14 thế kỷ, sinh phần của Lẽ Cốc đã bị đổ nát. Đến thế kỷ XVII, nhân dân làng Trường Xuân dựng lại đền thờ Lê Cốc ngay trên sinh phần xưa.

Theo các cụ cao niên ở địa phương cho biết: Trước đây, Đền thờ Lê Ngọc toạ lạc trên một khuôn viên có diện tích rộng khoảng hơn 2 mẫu. Đền thờ Lê Ngọc được cấu trúc trong một không gian gồm: Bình phong, cổng nghinh môn, sân rồng và đền chính. Đền chính quay mặt về hướng Nam, phía trước có hồ nước tạo thế tụ thuỷ, xa xa là một cánh đồng rộng có diện tích hàng trăm mẩu, nhìn xuống đền Bà ở làng Đồng Pho, xã Đông Hòa. Bên phải sân rồng còn có cả nhà giải vũ. Ngoài ra, cũng theo các cụ cao niên cho biết ở đây còn có cả giếng nước khá rộng, sâu, nước trong suốt bốn mùa. Những người được cắt cử trông coi việc tế lễ ở đây thường lấy nước ở giếng để dùng trong việc thờ cúng, tế lễ. Một điều khá đặc biệt của khu di tích này là xung quanh đền thờ (khoảng 2 mẫu) trước đây có một thành đất đắp dày và khá kiên cố như là bức thành ngoại của di tích. Xung quanh chính tẩm cũng có một thành đất giống như bức thành nội, chứng tỏ quy mô của tòa thành này khá lớn.

Tất cả Bình phong, cổng Nghinh môn, đền chính đến thành đất,...thuộc đền thờ của Lê Ngọc trước đây nay chỉ còn lại dấu vết về nền móng và các di vật như: gạch, ngói, chân tảng đá, bát hương đá cùng với dấu tích giếng cổ. Từ khi Lê Ngọc qua đời đến nay đã hơn 14 thế kỷ nên dấu vết sinh phần của ông không còn cũng là điều dễ hiểu. Đến thế kỷ XVII, dân làng Trường Xuân nói riêng, tổng Thạch Khê nói chung đã xây nơi thờ ông ngay trên chính nền đất sinh phần xưa. Nay nhà thờ bị đổ nát. Những dấu tích, hiện vật còn được bảo tồn đến ngày nay cho ta biết ngôi đền này được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI-XVIII.

Năm 2009, chính quyền địa phương cùng với tấm lòng hảo tâm của nhân dân làng Trường Xuân, nhân dân xã Đông Ninh, cũng như nhân dân huyện Đông Sơn và tỉnh Thanh Hoá, nhà hậu cung của đền thờ Lê Ngọc đã được tôn tạo lại trên một khuôn viên đất đai có diện tích là 6.592m2.

Hiện hậu cung là một ngôi nhà gồm ba gian, hai mái, phía trước được trổ cửa ra vào. Kiến trúc phía trong làm vì kèo bằng bê tông giả gỗ, mái lợp ngói mũi hài, chiều rộng lòng trong là 4,3m, dài 5,9m. Phía trước đền có một sân rộng 5,8m, dài 9,0m. Bố trí ban thờ như sau: Gian ngoài cùng đặt ban thờ chung.

Gian giữa là nơi đặt ban thờ Hội đồng.

Gian trong cùng là nơi thờ Cao tổ Hoàng đế Lê Ngọc.

Tóm lại: đền Thờ Lê Ngọc sau hơn một nghìn năm tồn tại đã bị huỷ hoại và mất đi nhiều tài liệu, hiện vật quý. Việc trùng tu tôn tạo lại đền thờ tuy không được bề thế khang trang như trước nhưng dù sao thì những gì còn lại đã phản ánh được phần nào diện mạo xưa của đền. Đặc biệt là tấm bia “Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo an đạo tràng chi bi văn” là một tài liệu quý giá để bổ sung vào chính sử ở giai đoạn thời nghìn năm Bắc thuộc ở nước ta.

Về tấm bia: Bia trước kia dựng tại làng Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay đã được đưa ra lưu giữ tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam. Bia cao 1,50m; rộng 0,75m; dày 0,15m. Trán bia tạo vòng bán nguyệt khắc 12 chữ Tiểu Triện chia làm 3 hàng trong 12 ô (gạch nổi). Bia trán hình vòng cung, đế hộp. Hai bên trán bia khắc hình đuốc lửa lượn vòng cung, diềm bia đã bị mờ. Đế bia tạc bằng một khối đá hình bình hành 6 mặt, khắc nét hình chữ Công. Bia dựng ngày 08 tháng 04 niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14 (618), triều nhà Tùy. Người soạn văn bia là Quan Kiểm hiệu Giao Chỉ, trấn trị quận Nhật Nam Nguyễn Nhân Khí. Toàn văn chữ Hán khoảng 26 dòng với 38 chữ.

Bia do Lê Cốc tức Lê Ngọc dựng ở Bửu (Bảo) An đạo trường mà ông đã tự mình chọn làm sinh phần tại địa phận làng Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn ngày nay. Bia do GS. Hoàng Xuân Hãn phát hiện được ở đền thờ Lê Ngọc tại làng Trường Xuân.

Theo khảo cứu của Giáo sư Trần Văn Giáp thì bia nói về một viên quan đời Tùy là Lê Ngọc cai trị Cửu Chân. Khi nhà Đường đánh đổ nhà Tùy thì ông không chịu theo nhà Đường nên đã nổi dậy chống lại quân Đường. Lê Ngọc đã kháng chiến đến cùng, sau khi chết, ông được nhân dân coi là anh hùng trung dũng và lập đền thờ ở nhiều nơi.

Theo Sách “Khảo sát văn hóa truyền thống Đông Sơn”, dịch giả Bùi Xuân Vĩ đã dịch bản sao thần tích Lê Ngọc có liên quan nhiều đến văn bia và công tích của người dựng bia.

Ngày nay chữ trên bia đã mờ gần hết do trải qua hơn 14 thế kỷ, nắng mưa, rêu phong nên bia đã bị bào mòn, chỉ còn lại 12 chữ Triểu Triện được khắc nổi trong 12 ô là tên bia và dòng lạc khoản ở cuối bia đề “Đại Nghiệp thập tứ niên, Thái tuế Mậu Dần, tứ nguyệt, bát nhật, kiến cử binh minh sứ quân Lê tác tạo”. Nghĩa là “Ngày mồng tám tháng tư năm Mậu Dần, niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14 (618) xây dựng bia minh do sứ quân Lê làm”.

Ngoài dòng chữ rõ ràng trên, những dòng chữ còn lại trong lòng văn bia đã mòn nhiều nên khó đọc, nhiều chữ bị mòn hết vì đến nay đã trải qua gần 14 thế kỷ, mưa gió, rêu phong bào mòn. Học giả Đào Duy Anh cho biết: “May sao ở đền thờ Lê Cốc tức Lê Ngọc ở Đồng Pho, cách làng Trường Xuân vài cây số thì còn một số tờ giấy cũ, tìm tòi trong ấy chúng tôi thấy có bài văn bia Trường Xuân do thân hào các xã Phù Liễn, Đồng Pho, Vạn Lộc, Hữu Bộc thuộc tổng Thạch Khê, huyện Đông Sơn đã hội đồng để rửa bia mà chép lại vào ngày 28 tháng tư năm Vĩnh Khánh thứ 3 (1731). Ngay thời bấy giờ cũng đã mòn rất nhiều chỗ không thể có toàn văn bia được. Năm Tự Đức thứ 30 (1876), trong tờ khai thần tích của 4 xã trên cũng sao lại bài văn bia chép đời Vĩnh Khánh và nói rằng: Vào đời Tự Đức, chữ bia đã mòn đến một nửa rồi. Bài văn bia ấy theo văn bản thì có 24 dòng. Theo Trần Văn Giáp thì Bia cổ Trường Xuân là bia cổ nhất và độc nhất hiện còn trên nước ta, rất tiếc rằng nhiều chữ trong bia quá mờ chưa ai đọc được.

Bên cạnh làng Trường Xuân có làng Đồng Pho (cũng có đền thờ Lê Cốc), hiện nay còn lại dấu vết các con đường thẳng và các giếng xây đá, mỗi giống đá gắn với một khu thành cổ. Nhân dân địa phương truyền rằng: Khi ở Đồng Pho (có ý kiến cho là Đông Phố) Lê Cốc sang phòng phụ cận ở Trường Xuân, thấy ở đây có thế đất đẹp nên lập sinh phần và “Bửu an đạo trường” làm nơi tu tĩnh. Căn cứ vào tấm bia đá Trường Xuân và những ghi chép trong sử cũ về đất Đồng Pho cho chúng ta biết, Đồng Pho là quận trị Cửu Chân ở trong huyện Cửu Chân thời nhà Tuỳ.

Các hiện vật trong di tích:

Hai đạo sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng.

Đá tảng: (05 viên), đường kính trong: 0,45m x 0,45m.

Bát hương đá: 04 cái (2 bát hương tròn; 2 bát hương vuông có tai).

Gạch vồ: 30 viên - kích thước là: 0,30m x 0,15m.

Ngói mũi hài: Nhiều mảnh vỡ.

01 bệ đá trang trí hình rồng.

Đá lan giai: 03 tảng.

Chân tảng loại nhỏ: 03 tảng.

01 bệ đá kê chân bàn thờ.

Ngoài ra còn có các đồ thờ khác như:

Bát hương sứ: 05 cái.

Long ngai: 01 cái.

Bài vị: 01 cái.

Đài nước: 15 cái.

Bát bảo: 01 bộ.

Mâm bồng: 01 cái.

Hạc gỗ: 02 đôi.

Hạc đồng 01 đôi.

Lục bình: 2 cái.

Chân nếm gỗ: 06 cái.

Lọ cắm hoa: 02 cái.

Lư đồng: 01 cái.

Hình ảnh Đền thờ Lê Ngọc

Xem tất cả
Đền thờ Lê Ngọc

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật